Thuận lợi và khó khăn khi vận dụng Trường phái đối ngoại và ngoại giao ‟Cây tre Việt Nam”- kiến nghị giải pháp cho công tác đối ngoại của Việt Nam
Chia sẻ:
Trường phái là gì? Đại từ điển tiếng Việt giải thích: “Phái, dòng khoa học, nghệ thuật có khuynh hướng, tư tưởng riêng: Trường phái hội họa lập thể” . Một công trình nghiên cứu khác cũng có nhận thức tương tự, song rõ ràng hơn. Các tác giả cho rằng: “Trường phái là nhóm nhà khoa học hoặc văn nghệ sỹ có chung một khuynh hướng tư tưởng, một phương pháp luận hoặc phương pháp sáng tác (thường có một người tiêu biểu đứng đầu). Các phái triết học. Trường phái ngôn ngữ học Praha .
1. Nhận thức về trường phái đối ngoại và ngoại giao ‟Cây tre Việt Nam”
Trường phái là gì? Đại từ điển tiếng Việt giải thích: “Phái, dòng khoa học, nghệ thuật có khuynh hướng, tư tưởng riêng: Trường phái hội họa lập thể”[1]. Một công trình nghiên cứu khác cũng có nhận thức tương tự, song rõ ràng hơn. Các tác giả cho rằng: “Trường phái là nhóm nhà khoa học hoặc văn nghệ sỹ có chung một khuynh hướng tư tưởng, một phương pháp luận hoặc phương pháp sáng tác (thường có một người tiêu biểu đứng đầu). Các phái triết học. Trường phái ngôn ngữ học Praha[2].
Vận dụng vào ngoại giao thì trường phái ngoại giao là các nhà ngoại giao, nhất là các nhà nghiên cứu ngoại giao có chung khuynh hướng tư tưởng, phong cách, phương pháp ngoại giao. Trên thế giới người ta hay nói Trường phái Ngoại giao cây tre khi nói về ngoại giao Thái Lan hoặc Ngoại giao cái gậy và củ cà rốt của Mỹ hay Ngoại giao thực dụng của Trung Quốc... v.v.. Người ta cũng nói đến các trường phái trong nghiên cứu quốc tế chẳng hạn như: Trường phái hiện thực, Trường phái chủ nghĩa tự do, Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa Kiến tạo, Trường phái Anh quốc…
Ở nước ta, đã có một số nhà nghiên cứu đề cập đến Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh như: nhà văn hóa Phan Ngọc, nhà ngoại giao kỳ cựu Võ Văn Sung, Vũ Khoan, Nguyễn Dy Niên.Tuy nhiên, đa số tác giả mới chủ yếu chỉ nêu vấn đề hoặc phân tích cơ sở thực tiễn, còn cơ sở lý luận cũng như khái niệm, các đặc trưng của Trường phái còn sơ lược và còn nhiều ý kiến khác nhau[3]. Nhà nghiên cứu, Vũ Dương Huân trong bài viết ‟Vài suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Việt Nam” năm 2009 đã đưa ra khái niệm trường phái ngoại giao dựa trên định nghĩa của Đại từ điển tiếng Việt về trường phái khoa học, là ‟các nhà ngoại giao, nhất là các nhà nghiên cứu ngoại giao có chung khuynh hướng tư tưởng, phong cách, phương pháp ngoại giao”. Ông gọi trường phái ngoại giao của chúng ta là ‟Trường phái ngoại giao Việt Nam”. Để trở thành trường phái ngoại giao phải có đủ 3 tiêu chí: cơ sở lý luận; cơ sở thực tiễn và có bản sắc riêng [4]. Cơ sở lý luận là truyền thống văn hóa, lịch sử và ngoại giao của cha ông; chủ nghĩa Mác -Lênin; tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; tinh hoa ngoại giao thế giới; những nhân tố tích cực của các trường phái lý luận quan hệ quốc tế. Cơ sở thực tiễn: hoạt động ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh; Bản sắc ngoại giao Việt Nam[5]. Trên cơ sở bài báo khoa học trên, tác giả đã phát triển thành ‟Một số suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh”[6] với các đặc trưng: độc lập dân tộc gắn chủ nghĩa xã hội; tư tưởng hòa hiểu; kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền, đánh kết hợp với đàm khi độc lập dân tộc bị vi phạm; gắn dân tộc và quốc tế; độc lập tự chủ, tự lực tự cường; chân thành, thủy chung, nghĩa tình; cứng về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; dĩ bất biến ứng vạn biến; giao tiếp chân thành, tế nhị khéo léo, có sức cảm hóa cao...
Từ đó rút ra bản sắc quốc gia. Bản sắc là ‟mầu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính. Bản sắc dân tộc”[7]. Bản sắc là một hệ thống mở các giá trị được hình thành và phát triển trong suốt lịch sử dân tộc và lịch sử ngoại giao, là cái cốt lõi có tính bền vững được lịch sử chưng cất và có khả năng tồn tại vượt thời gian, chi phối tư duy, tổ chức và các ứng xử trong bang giao quốc tế của quốc gia dân tộc. ‟Bản sắc quốc gia là biểu hiện của sự tương tác giữa sự nhận thức của chủ thể quốc gia về bản thân và sự nhận thức của quốc gia khác về bản thân chủ thể quốc gia đó”. Sự tương tác này tạo nên bản sắc của chủ thể và các hành vi tương ứng. Bản sắc quyết định cách thức chủ thể xác định lợi ích của mình và chính sách cần thi hành để đảm bảo lợi ích đó.
Trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, bản sắc quốc gia có thể hiểu theo nghĩa hẹp là bản sắc ngoại giao của quốc gia”[8]. Bản sắc ngoại giao phản ánh tập trung thế giới quan, nhân sinh quan và văn hóa ứng xử của dân tộc trong quan hệ quốc tế. Nó luôn được sàng lọc, năng động, tự phủ định để phát triển trong tiếp xúc, giao lưu, đấu tranh và hợp tác quốc tế.
Về trường phái ngoại giao Việt Nam, phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao 29 ngày 22/8/2016, lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: ‟Hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoạt động đối ngoại đã làm nên nhiều thành tích vẻ vang, xây dựng nên một trưởng phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc ‟Cây tre Việt Nam” mềm mại và cứng cỏi, nhân ái mà quật cường, biết nhu, biết cương, biết thời biết thế, biết mình biết người... thể hiện tâm hồn và khí phách của dân tộc Việt Nam”[9]. Tiếp đó, tại phiên khai mạc Hội nghị đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất ngày 14/12/2021, ông làm rõ hơn, sâu sắc hơn ý kiến độc đáo của mình. Ông viết: ‟Có thể khái quát lại: Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "Cây tre Việt Nam", "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển" (Thân gầy guộc, lá mong manh, mà sao nên luỹ, nên thành tre ơi!), thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, "tuỳ cơ ứng biến", "lạt mềm buộc chặt"![10].
Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 (19/12/2023), bản bản sắc ‟Ngoại giao Cây tre Việt Nam" được Tổng Bí thư khái quát rõ hơn, đầy đủ hơn. ‟Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc ”[11].
Trong bài viết rất quan trọng nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng, Tổng Bí thư nhắc lại Trường phái ngoại giao ‟rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc ‟Cây tre Việt Nam".
Cũng tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc, Tổng Bí thư thông báo: ‟chúng ta đã thống nhất cao khẳng định về sự hình thành, phát triển của Trường phái đối ngoại, ngoại giao "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”[12].
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình thưởng trà. Ảnh: TTXVN
Từ nhận thức của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể rút ra những khái quát sau đây về Trường phái ngoại giao ‟Cây tre Việt Nam”.
Cơ sở lý luận:
- Nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đối ngoại ngoại giao Hồ Chí Minh;
- Truyền thống, bản sắc ngoại giao và văn hóa Việt Nam;
- Tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại.
Cơ sở thực tiễn:
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay.
Bản sắc trường phái ngoại giao ‟Cây tre Việt Nam”:
Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam với những nét đặc trưng:
- Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt;
- Linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân;
- Đoàn kết nhân ái, song kiên quyết kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc;
- Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, "tuỳ cơ ứng biến".
2. Thuận lợi và khó khăn trong vận dụng nội hàm ‟Cây tre Việt Nam” vào công tác đối ngoại, ngoại giao Việt Nam
Việc vận dụng nội hàm/hay đặc trưng ngoại giao ‟Cây tre Việt Nam” vào công tác đối ngoại, ngoại giao của chúng ta hiện nay là việc làm không dễ dàng, phải nói là rất khó. Đây là các tiêu chuẩn rất cao được lịch sử tổng kết, chắt lọc.
Cách tiếp cận: là căn cứ vào những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại, ngoại giao để phân tích và chỉ ra những nhân tố thuận lợi và nhân tố không thuận lợi/khó khăn, nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan...
2.1. Thuận lợi
Thứ nhất, sự nghiệp đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, đã thu được nhiều thành công, sẽ tiếp tục được đẩy mạnh. Đó là định hướng lớn, cơ bản đường lối chính sách Việt Nam. Đường lối được hoạch định khoa học đáp ứng yêu cầu của thực tiễn Việt Nam, phù hợp với các xu hướng của thời đại. Đó là nhân tố hàng đầu quyết định thành công của công tác đối ngoại, ngoại giao và hội nhập quốc tế sâu rộng của nước ta.
Tiếp tục triển khai sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[13]. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức trung bình thấp; Đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao[14].
Dù có không ít khó khăn, thách thức, chúng ta tin tưởng rằng các mục tiêu phát triển mà Đảng đề ra sẽ được thực hiện, sự nghiệp đổi mới sẽ tiếp tục đâm hoa, kết trái.
Thứ hai, trong sự nghiệp đổi mới, sức mạnh tổng hợp quốc gia của nước ta ngày càng được tăng cường, cả sức mạnh cứng cũng như sức mạnh mềm. Sức mạnh của ngoại giao tùy thuộc vào nội lực quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”[15]. Đảng xác định: “…muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”[16]. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [17].
Một trong các tiêu chí quan trọng của sức mạnh cứng là quy mô nền kinh tế. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)[18]. Tạp chí The Economist (Anh) tháng 8/2020 đã xếp Việt Nam trong danh sách 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. PwC - một trong bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới (có trụ sở tại Anh) - dự báo Việt Nam sẽ nằm trong số 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới sau năm 2030. Một số chuyên gia nước ngoài cũng cho rằng, Việt Nam có triển vọng trở thành một trong những nền kinh tế nổi bật nhất châu Á, bất chấp thách thức và khủng hoảng từ đại dịch COVID-19.
Về sức mạnh quân sự, Global Ferepower xếp hạng 145 quốc gia năm 2023, Việt Nam đứng thứ 19 với Powerindex: 0,2855.
Liên quan đến sức mạnh mềm, là khái niệm do giáo sư người Mỹ GJoseph Nye, nguyên Hiệu trưởng Trường Quản trị công J.F. Kennedy, thuộc Đại học Harvard (Mỹ), nguyên trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đưa ra vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Theo đó, “sức mạnh mềm” là khả năng tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút để các nước khác “tự nguyện” thay đổi hành vi, chính sách phù hợp với điều mà mình muốn, thay vì cưỡng bức thông qua sức mạnh kinh tế và quân sự. Sức mạnh mềm của quốc gia thường xuất phát từ ba nguồn: Giá trị văn hóa; những giá trị chính trị và chính sách đối ngoại của quốc gia[19].
Sức mạnh của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là thế mạnh của Việt Nam. Sức mạnh mềm của một quốc gia là tất cả những gì có thể tạo nên sức hấp dẫn, thu hút được sự ngưỡng mộ, kính phục của cộng đồng thế giới dành cho quốc gia đó.
Thứ ba, Việt Nam có ‟đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[20]. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập năm 1947 “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”3. “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”[21]. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Đó là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng và Nhà nước trong suốt tiến trình lịch sử ngoại giao Việt Nam. Đây là đường lối đối ngoại khoa học, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phức tạp. Đường lối đúng vô cùng quan trọng, là cơ sở để đảm bảo thành công trong mọi hoạt động, trong đó có hoạt động đối ngoại, ngoại giao của Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, chính trị nội bộ là nói đến hệ thống chính trị của quốc gia, vai trò của các đảng phái chính trị, đảng nào, liên minh nào đang nắm quyền điều hành đất nước, tình hình chính trị nội bộ của quốc gia ổn định hay bất ổn v..v. Đó là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách đối ngoại, là nhân tố phải tính đến khi nghiên cứu chính sách đối ngoại của quốc gia.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất cầm quyền. Trong thời kỳ đổi mới, cơ bản tình hình Việt Nam là ổn định mặc dù có lúc có bất ổn bộ phận như tại Tây Nguyên năm 2001, 2004 và 6/2023, song đã nhanh chóng được xử lý ổn thỏa. Chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có giao thương quốc tế. Đất nước không ổn định, không, quốc gia, vùng lãnh thổ nào muốn thúc đẩy thương mại đầu tư.... Có nhiều thực tiễn đề chứng minh như Miama, nhiều nước châu Phi...
Thứ năm, thế giới là một chỉnh thể mà mỗi quốc gia - dân tộc là một bộ phận cấu thành của thể giới. Bất cứ quốc gia nào cũng có quan hệ biện chứng với phần còn lại của thể giới. Mọi sự vận động, biến đổi trên thế giới đều tác động đến tất cả các quốc gia. Có sự kiện tác động nhiều, sâu sắc, song có sự kiện tác động, ảnh hưởng ít. Các sự kiện lớn như hai cuộc đại chiến thế giới, Cách mạng tháng Mười Nga 1917, đại khủng hoảng 1929 - 1933, “Chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam”, chiến tranh lạnh chấm dứt, sự sụp đổ của Liên Xô, sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, Trung Quốc trỗi dậy, Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ucraina từ tháng 2/2022 ảnh hưởng sâu sắc đến bối cảnh thế giới, khu vực.
Khi nói về tình hình thế giới, khu vực trước hết phải tìm hiểu cục diện thế giới, cục diện khu vực và trật tự thế giới, trật tự khu vực. Cục diện thế giới là bức tranh toàn cảnh phản ánh tương quan lực lượng và quan hệ giữa các chủ thể chính của quan hệ quốc tế, trước hết là các cường quốc, các trung tâm quyền lực trong phạm vi không gian nhất định và lát cắt thời gian. Cục diện thế giới bao quát tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học công nghệ... song trọng tâm là chính trị - an ninh. Trong phân tích dự báo, cục diện thường được mô tả qua các thành tố chính: (1) cấu trúc dựa trên so sánh quyền lực giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực; (2) tương quan sức mạnh tổng hợp và quan hệ giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn; (3) các xu thế và các đặc điểm chính của quan hệ quốc tế, vị trí, vai trò của các tổ chức quốc tế; (4) các điểm nóng, các vấn đề nổi cộm trong quan hệ quốc tế [22].
Mặc dù, tình hình quốc tế, khu vực ‟đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo song hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn”... Ngoài ra, các xu thế khác như ‟toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển”...‟Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp... cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức”[23]. Về khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng[24] .
Như vậy, mặc dù bối cảnh quốc tế, khu vực có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường song chúng ta quyết tâm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Thứ sáu, vị thế địa chiến lược của nước ta ngày càng tăng trong chiến lược, chính sách đối ngoại của các nước, nhất là các nước lớn, các trung tâm quyền lực thế giới, các nước láng giềng trong khu vực. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến vị thế địa chính trị của nước ta. Trước hết, là sức mạnh tổng hợp quốc gia của nước ta ngày càng tăng. Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, có vị thế địa chiến lược, địa kinh tế quan trọng ở Đông Nam Á, một bộ phận quan trọng trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Các trung tâm quyền lực như Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật, Ấn Độ, Liên minh Châu âu ...đều rất quan tâm, coi trọng vị thế Việt Nam đang lên trong bàn cờ chính trị thế giới và khu vực.
Cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. (Ảnh: Trọng Phú)
Thứ bẩy, các bài học lịch sử ngoại giao Việt Nam trong 94 năm qua. Có bài học thành công song cũng có bài học thất bại. Nhờ đó, ngoại giao Việt Nam trưởng thành hơn, bớt vấp ngã hơn. Như người La Mã nói một câu rất hay: ‟Lịch sử là thày dậy của cuộc đời”. Bài học thành công để chúng ta phát huy, còn bài học chưa thành công để chúng ta rút kinh nghiệm mà phòng tránh.
Ngoại giao Việt Nam đã để lại những bài học vô giá như: Kiên trì lợi ích quốc gia - dân tộc; Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; Độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, hội nhập quốc tế; Coi trọng quan hệ với các nước lớn: Coi trọng quan hệ với láng giềng, Dĩ bất biến ứng vạn biến; Kết hợp quân sự, chính trị, ngoại giao; Coi trọng nghiên cứu, dự báo chiến lược; Đấu tranh dư luận; Nghệ thuật đàm phán... Bên cạnh bài học thành công có một số bài học chưa thành công, chủ yểu liên quan đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Có thể kể đến: Việc tham gia thương lượng đa biên do các nước lớn chi phối về chính vấn đề của mình; ‟Ngây thơ” về chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa kết hợp tốt giữa đoàn kết quốc tế và độc lập tự chủ; Chưa phát huy hiệu quả thế thắng chiến thắng Điện Biên Phủ trong thương lượng; Kỹ thuật đàm phán có những hạn chế; Cân bằng quan hệ Xô - Trung sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Lỡ thời cơ bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ những năm 1977 - 1978...
2.2 Khó khăn
Thứ nhất, nhiệm vụ đối ngoại càng trở nên rộng lớn và phức tạp hơn nhiều. Nếu như trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1945-1975), nhiệm vụ công tác chính sách đối ngoại và ngoại giao tương đối đơn giản. Đối ngoại và ngoại giao phục vụ nhiệm vụ giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đối ngoại và ngoại giao thời kỳ đổi mới và hội nhập, nhiệm vụ nhiều, đa dạng phong phú, phức tạp hơn nhiều. Ngoài ngoại giao chính trị có ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Trong ngoại giao chính trị có ngoại giao quốc phòng và an ninh. Bên cạnh hội nhập kinh tế quốc tế có hội nhập chính trị - an ninh, văn hóa - xã hội... Hiện nay, các nhà nghiên cứu nói nhiều đến ngoại giao môi trường, ngoại giao biến đổi khí hậu, ngoại giao nguồn nước... Các vấn đề rất chuyên sâu. Vấn đề cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đặc biệt được quan tâm, rất nhạy cảm. Hiện nay có khoảng 6 triệu người Việt Nam sinh sống, làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Do đó, việc bảo hộ công dân thế nào khi có vấn đề xẩy ra với cộng đồng người Việt là vấn đề vô cùng nan giải.
Đồng thời, Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, chúng ta là một bộ phận hữu cơ của thế giới nên mọi tác động tích cực, tiêu cực của thế giới đều ảnh hưởng đến Việt Nam. Minh chứng: cho đến nay, Việt Nam đã ký kết 19 hiệp định thương mại tự do với các nước. Chúng ta phải biết tận dụng thời cơ và phòng tránh thách thức khi hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới đặt ra.
Mặt khác, càng hội nhập sâu rộng, lợi ích các chủ thể luôn bị cọ sát. Có lợi ích song trùng song cũng có lợi ích mâu thuẫn. Do đó, xử lý thế nào là vấn đề không đơn giản. Trong bối cảnh tất các quốc gia đều coi lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết. Ví dụ Lào, Trung Quốc xây dựng các đập thủy diện trên thượng nguồn sông Mê Công!
Thứ hai, khi nói về thuận lợi, sức mạnh tổng hợp quốc gia của nước ta ngày càng tăng trưởng. Tuy nhiên, phấn đấu đạt được mục tiêu phát triển mà Đại hội XIII đặt không phải là chuyện dễ dàng. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20 - 25/1/1994) nêu bốn thách thức: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; diễn biến hòa bình [25]. Đại hội XIII vẫn nhận định: ‟Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”[26]. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải phấn đấu rất quyết liệt mới có thể đạt được các mục tiêu đề ra như nêu ở trên.
Thứ ba, bối cảnh quốc tế, khu vực bên cạnh các yếu tố thuận lợi, song cũng có nhiều nhân tố phức tạp, khó khăn, trở ngại mà Đại hội XIII đã dự báo. Đó là tình hình diễn biến nhanh phức tạp, khó lường, khó dự báo chính xác; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; chủ nghĩa dân tộc, cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng; xung đột cục bộ phức tạp và quyết liệt hơn làm tăng rủi ro đối với môi trường quốc tế; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế bị thách thức; Luật quốc tế và chủ nghĩa đa phương cũng bị thách thức; các vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, an ninh con người, dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khi hậu, môi trường, nước biển dâng... không dễ đối phó. Cách mạng khoa học công nghệ 4.0 cũng tạo ra những thách thức; kinh tế thế giới sau Đại dịch COVID -19 có không ít khó khăn... khu vực Đông Nam Á cũng có những vấn đề phức tạp, nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo tiềm ẩn nhiều bất ổn; hòa bình, ồn định, tự do an ninh, an toàn hàng hải, hàng không tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Một vấn đề rất hệ trọng đối với thế giới cũng như đối với nước ta là cạnh tranh chiến lược Mỹ -Trung có đã đến chiến tranh lớn không? Liệu có rơi vào "Bẫy Thucydides"[27], theo đó chiến tranh là xu hướng tự nhiên khi một trung tâm quyền lực mới nổi lên đe dọa thay thế trung tâm quyền lực cũ do GS Graham Allison, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Chính trị tại Trường Kennedy, Đại học Harvard nêu ra. Ông nghiên cứu 16 cặp cường quốc cũ - mới trong suốt 500 năm qua đã từng rơi vào "Bẫy Thucydides", và rút ra kết luận: 12 cặp giải quyết cạnh tranh bằng chiến tranh, chỉ có 4 trường hợp bằng hòa bình. Ông cho rằng chiến tranh có khả năng xẩy ra vì có 5 ngòi nổ:
i) Va chạm giữa lực lượng của Trung Quốc và Mỹ trên Biển Đông;
ii) Đài Loan tuyên bố độc lập;
iii) Xung đột quân sự giữa Trung Quốc và một đồng minh của Mỹ;
iv) Chính quyền Bắc Triều Tiên sụp đổ;
v) Chiến tranh thương mại biến thành xung đột quân sự [28].
Thứ tư, liên quan đến nhận thức. Một số vấn đề đối ngoại và ngoại giao có nhận thức khác nhau. Ví dụ như đánh giá và cách tiếp cận đối với Mỹ, Trung Quốc. Lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết, trước hết, song khi cụ thể hóa lại có nhận thức không giống nhau.
Về trường phái ‟Ngoại giao Cây tre” hiện nay cũng có những ý kiến khác nhau. Một số nhà nghiên cứu cho rằng không nên gọi là ngoại giao Cây tre Việt Nam vì ngoại giao cây tre là thương hiệu của Thái Lan, đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh lạnh; Cây tre không chỉ có ở Việt Nam mà có ở rất nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Lào, Ấn Độ, Miama, Xrilanca, Braxin...
Thứ năm, ngoại giao là khoa học tổng hợp, nên từ thu thập thông tin đến đánh giá tình hình, ra quyết sách và tổ chức thực hiện phải có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện. Như vậy, công tác đối ngoại, ngoại giao muốn thành công cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa những lực lượng tham gia công tác đối, ngoại ngoại giao. Chúng ta đã ban hành Quyết định 272-QĐ/TW ngày 21/1/2015 của Bộ Chính trị và Hướng dẫn thực hiện Quy chế thống nhất các hoạt động đối ngoại rất hay, rất chi tiết, song mới chủ yếu mới là các quy định hành chính. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp nghiên cứu, kể cả chia sẻ thông tin chiến lược đánh giá tình hình và đặc biệt khi ra quyết sách đối ngoại và triển khai công tác đối ngoại, ngoại giao?
Thứ sáu, về năng lực các nhà ngoại giao, kể các lãnh đạo quốc gia đã được nâng cao trong thời kỳ đổi mới, song chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng khó khăn, phức tạp. Vẫn còn những việc đáng tiếc xẩy ra trong quá trình triển khai các hoạt động đối ngoại và ngoại giao.
Thứ bẩy, tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác đối ngoại, ngoại giao đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cũng chưa thể đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công tác đối ngoại và ngoại giao. Ngoại giao văn hóa, ngoại giao công chúng, ngoại giao phát triển cần nhiều tài chính...
3. Một số kiến nghị về giải pháp
1) Tiếp tục nghiên cứu Ngoại giao Cây tre Việt Nam sâu sắc thêm, có lập luận khoa học vững chắc tạo sự đồng thuận cao trong xã hội trước hết là trong các cán bộ đối ngoại, ngoại giao Việt Nam, lực lượng chủ công làm công tác đối ngoại và ngoại giao. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề lý luận đối ngoại cần nghiên cứu sâu thêm, lý giải cặn kẽ khoa học như phương pháp luận ngoại giao Việt Nam; lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết, trước hết; thế nào là hội nhập quốc tế sâu; làm thế nào giữ được lập trường trung lập trong quan hệ với các nước lớn; có nên đi đầu trong tham gia ASEAN v.v.v.
2) Nghiên cứu tổng kết bài học và phổ biến rộng rãi
‟Lịch sử là thày dậy của cuộc đời” cho nên mọi hoạt động đối ngoại/ngoại giao, nhất là các sự kiện lớn, quan trọng phải được tổng kết, rút kinh nghiệm. Tổng kết phải sâu, tránh hình thức, phải khoa học, khách quan, có người trong cuộc và kịp thời. Đồng thời để tăng tác dụng, các bài học thành công cũng như chưa thành công phải được thông tin rộng rãi trong nội bộ để tất cả cán bộ đối ngoại/ ngoại giao rút kinh nghiệm. Tổng kết mà để trong lưu trữ hay ngăn kéo tác dụng sẽ rất hạn chế.
3) Về cơ chế phối hợp
Đối ngoại và ngoại giao là khoa học tổng hợp do vậy cần sự phối, kết hợp giữa nhiều lực lượng tham gia. Đây là hạn chế của văn hóa Việt Nam. Chúng ta đã có Quyết định 272 về thống nhất các hoạt động đối ngoại. Tuy nhiên, quyết định nặng về hành chính, chưa đi vào nội dung công tác đối ngoại/ ngoại giao. Cần tham khảo mô hình Tổ chức quyết sách với Ủy ban Ngoại vụ Trung ương của Trung Quốc. Cần đặc biệt coi trọng phối hợp nghiên cứu đánh giá, dự báo tình hình, trong đó có việc chia sẻ thông tin chiến lược, một vấn đề hiện có nhiều hạn chế.
4) Đào tạo, bồi dưỡng
Để nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại và ngoại giao, phải tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại/ngoại giao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cần rất linh hoạt, uyển chuyển, tránh nặng về lấy chúng chỉ, hình thức, nhất là công tác bồi dưỡng phải thường xuyên. Nhiều khi không cần đến lớp, đến trường mà tổ chức ngay tại cơ quan. Thiêu kiến thức, kỹ năng gì thì bổ túc kiến thức kỹ năng ấy.
5) Công tác tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật
Cần có đủ tài chính làm công tác đối ngoại và ngoại giao, nhất ngoại giao văn hóa. Tuy nhiên, phải sử dụng tài chính hiệu quả và thiết thực.
Tóm lại, thực hiện chỉ đạo sâu sắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với đội ngũ cán bộ đối ngoại, ngoại giao “phải nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi khuôn khổ những tư duy cũ, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế”[29]./.
ĐS GS TS Vũ Dương Huân
Học viện Ngoại giao
Danh mục tài liệu tham khảo:
1) Bộ Ngoại giao (Nguyễn Đình Bin: chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. CTQG, Hà Nội 2020.
2) Bộ Ngoại giao (Vũ Khoan: chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 2001-2015, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2015.
3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TƯ K. VII, ngày 20.1/1994, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội-2007, t.53.
4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội XIII, Nxb. CTQG, Hà Nội-202, tập 1.
5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tập 5.
6) Học viện Ngoại giao. Khoa chính trị quốc tế và ngoại giao (GS TS Vũ Dương Huân): Chính sách đối ngoại Việt Nam 1945-1975, Nxb. Hồng Đức- Hà Nội-2024.
7) PGS TS. Vũ Dương Huân: Vài suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3(78) tháng 9-2009.
8) GS TS Vũ Dương Huân: Một số suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2 & 3(133+134) tháng 6 & 9/2023.
9) Tạ Hoàng Tấn: Bẫy Thucydides, http://tramdoc.vn/tin-tuc/bay-thucydides-npVlAW.html.
10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội-2022.
11) Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền đối ngoại ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại mang đâm bản sắc ‟Cây tre Việt Nam”, Nxb. CTQG, Hà Nội-2023.
12) TS Nguyễn Tuấn Việt (Chủ biên): Bản sắc quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam: Một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Thế giới, Hà Nội-2021.
[1] Bộ Giáo dục - Đào tạo (Nguyễn Như Ý chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa- Thông tin, Hà Nội 1998, tr.1739.
[2] Viện Ngôn ngữ: Từ điển tiếng Việt 2001, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- 2001 tr. 1058.
[3] Phan Ngọc: Vấn đề trường phái ngoại giao Việt Nam, Tư liệu Ban Nghiên cứu Lịch sử ngoại giao, Bộ Ngoại giao; Vũ Khoan: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động quốc tế và công tác ngoại giao,Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 (9/1994); Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội- 2002; Bộ Ngoại giao: Tổng luận tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Đề tài NCKH đặc biệt cấp Bộ; Võ Văn Sung: Vài suy ngẫm về Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội-2010; Vũ Khoan: Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh, https://tinnhanhchungkhoan.vn/chinh-tri/truong-phai-ngoai-giao-ho-chi-minh-327441.html
[4]. PGS TS Vũ Dương Huân: Vài suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3(78) tháng 9-2009.
[6] Một số suy nghĩ về Trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2 & 3(133+134) tháng 6 & 9/2023.
[7]. Trung tâm Từ điển học: Từ điển tiếng Việt nam 1997, Nxb. Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học, Hà Nội- Đà Năng,1997, tr.29.
[8]. TS Nguyễn Tuấn Việt(Chủ biên): Bản sắc quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam: Một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn, Nxb.Thế giới, Hà Nội-2021, tr. 21-21.
[9]. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng và phát triển nền đối ngoại ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại mang đâm bản sắc ‟Cây tre Việt Nam”, Nxb. CTQG, Hà Nội-2023, tr. 125.
[10] Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr. 154.
[11] Nguyễn Phú Trọng: Phat biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, https://vov.vn/chinh-tri/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-ngoai-giao-32-post1066460.vov. Truy cập ngày 19/12/2023.
[12] Như trên.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội XIII, Sđd, t.1 tr.111-112.
[14].Theo Ngân hàng thế giới: thu nhập quốc dân trên đầu người từ 876-3465 USD/năm là trung bình thấp; từ 3465 USD đến 12.535 USD là trung bình cao; còn thu nhập cao phải từ 12.535 USD trở lên. Việt Nam hướng tới 18.000 USD/đầu người vào năm 2045.
[15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t, 4, tr.147.
[16]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.8, tr. 27.
[18]. Nguyễn Phú Trọng: Bai viết nhân 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, https://vnexpress.net/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ky-niem-94-nam-thanh-lap-dang-4707203.html. Truy cập 31/1/2024.
[19]. J. Nye: “Think Again: Soft Power”, https://foreignpolicy.com/2006/02/23/think-again-soft-power/.
[20]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ XIII, Nxb. CTQG, Hà Nội-2021, t. 1, tr. 162.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb .CTQG, Hà Nội-2011, t.5, tr.256.
[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,, t.5, tr. 39.
[22]. Học viện Ngoại giao. Khoa chính trị quốc tế và ngoại giao (GS TS Vũ Dương Huân) : Chinh sách đối ngoại Việt Nam 1945-1975, Nxb. Hồng Đức- Hà Nội-2024, tr. 54.
[23]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đại hội XIII, Nxb CTQG, Hà Nôi-2021, tập 1 tr 1005-106.
[24]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đại hội XIII, Sđd, tr. 107.
[25]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TƯ K VII, ngày 20.1/1994, Văn kiện Đảng Toàn tập, t.53, Nxb. CTQG, Hà Nội-2007, tr.198.
[26]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội XIII, Sđd, tr.108.
[27] Là một khái niệm mang hàm nghĩa rằng, chiến tranh là xu hướng tự nhiên khi một trung tâm quyền lực mới nổi lên đe doạ thay thế trung tâm quyền lực cũ. "Bẫy Thucydides" được mang tên nhà sử học Hy Lạp cổ đại Thucydides, người đã có những quan sát về cuộc chiến tranh giữa quyền lực mới trỗi dậy là thành bang Athens và quyền lực cũ đang thống trị là thành bang Sparta. Cả hai bên đã phải trả một cái giá rất đắt trên nhiều lĩnh vực và cuộc chiến này là một trong những nguyên nhân khiến nền Văn minh Hy Lạp cổ đại sụp đổ. Thucydides đã phát biểu rằng: "Chính sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi mà nó gây ra ở Sparta đã khiến chiến tranh trở thành điều tất yếu".
[28] Tạ Hoàng Tấn: Bẫy Thucydides, http://tramdoc.vn/tin-tuc/bay-thucydides-npVlAW.html
[29] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội-2022, tr. 193.
Tin đọc nhiều
Dữ liệu hiện đang được cập nhật
Phổ biến
Dữ liệu hiện đang được cập nhật